Thiền Vô Vi

*** NGUYỄN giáng trần thọ hưởng nghĩa ân. THỊ hòa tâm sự tự phân lần. ANH hành chơn pháp tìm lối thoát. ĐÀO duyên trời độ rõ pháp ân. Lương Sĩ Hằng-Vĩ Kiên.Ký Bút ****

Thứ Hai, 3 tháng 9, 2018

01 - Giới Thiệu

Lời Giới Thiệu


Pháp lý Vô Vi Khoa Học Huyền Bí Phật Pháp (PLVVKHHBPP) là một phương pháp thiền không phải là một tôn giáo nên:
  • Không đối nghịch với bất cứ một tôn giáo nào, một chủng tộc nào, hay một ý thức hệ nào.
  • Không có giáo điều, không có giáo chủ, mà chỉ có người đi trước thành công hướng dẫn người đi sau.
Pháp lý Vô Vi Khoa Học Huyền Bí Phật Pháp còn có tính chất độc lập, thực tế và giản dị nên:
  • Bất cứ ai cũng có thể hành được.
  • Hành giả không phải tuân theo một điều luật gì cả như lễ nghi, thủ tục nhập môn, nguyệt liễm, cấm giới hay sự bắt buộc phải tin tưởng một tín điều gì trước.
  • Không phải thay đổi nếp sống hằng ngày như buôn bán, học hành, làm ăn vẫn như thường.
  • Chỉ đòi hỏi hành giả một điều duy nhất là sự thực hành đều đặn.
Sau một thời gian ngắn luyện tập, hành giả sẽ đạt được một kết quả như sau:
  • Về thể chất: Thanh lọc bản thể, sức khỏe gia tăng, trị dứt bệnh nhức đầu, đau lưng, mất ngủ, ăn không ngon, kém trí nhớ. Phục hồi thần sắc nhanh chóng. Người trẻ lại, lâu già.
  • Về tinh thần: Trở nên sáng suốt, xua đuổi phiền não, giải tỏa lo âu, giúp nội tâm trở lại thanh bình và an lạc.
  • Về tâm linh: Gia tăng linh cảm tùy (theo căn cơ của hành giả) giải trừ nghiệp lực trong tâm thức, tự thanh lọc tư duy của chính mình để đạt đến trình độ huệ giác, tự giải thoát phần hồn của mình khỏi vòng luân hồi lục đạo.
Pháp lý Vô Vi Khoa Học Huyền Bí Phật Pháp gồm có ba pháp chánh (Soi Hồn, Pháp Luân Thường Chuyển, Thiền Định) và một pháp phụ (Pháp Luân Chiếu Minh) rất quan trọng để thanh lọc bản thể và khai triển tâm linh. Ngoài ra cũng có những pháp hành thêm để tập luyện cho tăng cường sức khỏe.
Những điểm trọng yếu của Pháp lý Vô Vi sẽ được chỉ dẫn tỉ mỉ để giúp cho hành giả, nếu bền tâm vững chí, thực hành đều đặn hàng ngày, chắc chắn sẽ thu hoạch kết quả mong ước.
Hành giả mới bắt đầu tập nên thực hành giai đoạn đầu trong vòng sáu tháng. Sau đó qua giai đoạn kế tiếp, hành giả mới bắt đầu vào phép thiền định.
Muốn được kết quả tốt, hành giả mới tập thiền nên học hỏi với các bạn đã có kinh nghiệm lâu năm để thực hành cho đúng. Thêm vào đó Ông Tám đã đích thân thực hiện một cuốn DVD, hướng dẫn và giải thích rõ ràng, rành mạch phương pháp công phu theo Pháp lý Vô Vi Khoa Học Huyền Bí Phật Pháp này. Xin liên lạc với các hội ái hữu Vô Vi gần nơi bạn cư ngụ để lấy tài liệu.



02- Những Bật Thầy

Thiền Sư Lương Sĩ Hằng (1923-2009) - Tiểu sử



Ông Lương Sĩ Hằng sinh ngày 20 tháng 12 năm 1923 (tức ngày 13 tháng 11 năm Quý Hợi) tại Quy Nhơn, thuộc tỉnh Bình Định, Việt Nam. Ông là người Việt gốc Hoa, đã từng giữ chức vụ phụ tá giám đốc dặc trách thị trường cho công ty hóa học Getz Brothers & Co. (Hoa Kỳ) trước năm 1975. Ông có vợ và 2 con gái nuôi. Ông còn nghiên cứu thêm khoa châm cứu và chữa được nhiều người.
Khi còn trẻ, ông bị đau tim và đau thận nên hay có ý chán đời. Sau có cơ duyên gặp được cụ Đỗ Thuần Hậu, ông Lương Sĩ Hằng xin thụ giáo tu hành theo Pháp lý Vô Vi Khoa Học Huyền Bí Phật Pháp. Nhờ cương quyết tu hành nên trong ba tháng đầu công phu ông đã thấy nhiều ấn chứng phi thường về sức khỏe và tinh thần.
Ông đã bị cầm tù trong 13 tháng tại Việt Nam vì bị tình nghi làm do thám cho chánh phủ Hoa Kỳ trong thời gian trước 1975. Trong thời gian bị cầm tù, ông đã châm cứu chữa bệnh và dạy cho những người trong tù phương pháp tu thiền để đạt được sự thanh tịnh và sự thiện lành. Với sứ mạng hoằng pháp, ông đã rời Việt Nam năm 1978 đến trại tị nạn Fabella, Phi Luật Tân. Ông đã mang công sức chữa bệnh cho đồng bào tại trại tị nạn và các viên chức người Phi. Nếu có ai phát tâm thì ông lại đem giúp cho các trại tị nạn Bataan, Palawan và Fabella. Ông còn dành nhiều thì giờ giảng pháp thiền cho đồng bào trong các trại tị nạn.
Năm 1979, ông định cư tại Montréal, Canada và hàng năm theo lời mời của các bạn đạo ông đã đi thuyết giảng tại khắp các quốc gia trên các lục địa Âu, Á, Phi, Úc, và Mỹ. Tuy tuổi đã cao, nhưng ông cũng không quản ngại nhọc nhằn tiếp tục truyền pháp đến khắp nơi mà đồng bào Việt Nam cần đến hầu giúp họ tìm lấy con đường giải thoát cho chính họ. Ông mất ngày 23-09-2009 (nhằm ngày 05 tháng 08 năm Kỉ Sửu) thọ 86 tuổi (87 tuổi ta). Các bài giảng của ông để lại rất nhiều đã được thu vào cassette, CD, video, DVD và cũng đã được Hội Ái Hữu Vô Vi in ra thành sách.

03 - Những Bật Thầy

                                                    

Đức Tổ Sư Đỗ Thuần Hậu (1883-1967) - Tiểu sử




Cụ Đỗ Thuần Hậu sinh năm 1883 tại quận Lai Vung, tỉnh Sa Đéc, Việt Nam. Thân phụ là cụ Đỗ Hạo Cừu, Phó Tổng An Thới dưới thời Pháp thuộc. Thân mẫu là cụ Đào Thị Bòi. Lúc lên 9 thì mẹ mất, cụ phải ở với cha và bà kế mẫu cho đến khi lớn.
Sau khi lập gia đình được vài năm, cụ mới tách ra ở riêng. Cũng vì hoàn cảnh khổ sở thời đó, cụ phải học nhiều nghề để sinh sống và nuôi gia đình. Cụ đã học qua các nghề thuốc Bắc, thuốc Nam, làm bùa Lỗ Ban, coi quẻ, thợ mả, thợ nhuộm, thợ sơn... Khi sửa soạn lập gia đình cụ phải đi dạy thêm tiếng Việt và tiếng Pháp cho trẻ em trong làng để có tiền lấy vợ. Cụ có được 8 người con: 1 trai và 7 gái. Người con trai trưởng của cụ là ông Đỗ Vạn Lý, từng là Sứ Thần tại Ấn Độ và cựu Đại Sứ tại Hoa Kỳ dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Ông cũng từng giữ chức Tham lý Minh Đạo trong cơ quan Phổ Thông Giáo lý Cao Đài Giáo, Việt Nam.
Vì lúc thiếu thời, cụ Đỗ Thuần Hậu gặp nhiều hoàn cảnh éo le, nên tâm trí cụ lúc nào cũng suy xét về cuộc đời và kiếp người. Do đó, cụ quyết tâm tầm đạo. Sau khi tu theo Cao Minh Thiền Sư một thời gian, cụ vẫn chưa hoàn toàn hài lòng vì vẫn chưa được giải đáp hết thắc mắc. Cụ trở về gia đình và tự nghiên cứu thêm Pháp lý Vô Vi. Trong thời gian này, nhiều lúc cụ định thần và thường thấy hình Đức Phật hiện ra trên vách. Cụ lấy làm lạ nên càng cố tâm tu luyện. Lúc khởi công tu thì cụ đã 55 tuổi, tâm không sợ chết, sợ nghèo đói, cụ quyết chí tu để xuyên phá bức màn Vô Vi bí mật hầu tiếp xúc với Phật Tiên mà học Đạo. Nhờ lòng chí thành mộ Đạo, cụ Đỗ Thuần Hậu đã ngộ được Pháp lý Vô Vi Khoa Học Huyền Bí Phật Pháp. Cụ đã xuất hồn về cõi Vô Vi và đã được học đạo trực tiếp với Đức Phật như lời cụ đã tự thuật trong quyển "Phép Xuất Hồn".
Cụ Đỗ Thuần Hậu (thường được gọi là Ông Tư) đã truyền dạy lại cho ông Lương Sĩ Hằng (thường được gọi là Ông Tám) để tiếp nối công việc truyền bá đạo pháp. Cụ mất ngày 12-11-1967 (nhằm ngày 11 tháng 10 năm Đinh Mùi) thọ 84 tuổi (85 tuổi ta). Các tác phẩm của cụ để lại là Đời Đạo Song Tu, Phép Xuất Hồn, Quái Mộng Kỳ Duyên, Tình Trong Bốn Bể (Điểu Sào Thiền Sư), Kinh A DI ĐÀ.
Thơ của Đức Tổ Sư
(Nhấp vào đề tựa để xem)
1.(Công danh phú quý) #
2.(Di Đà sáu chữ ấy ơn sâu) #
3.(Trăm Năm Bia Đá) ^
4.Bài Thuyết Thứ Hai của Cụ Đỗ Thuần Hậu
5.Giải Nghĩa Lục Tự Di Đà #
6.Sấm Tu Hành
7.Thức Tánh
8.Tự Thuật Thi
của tổng cộng 8 bài thơ theo thứ tự của phần Tựa. (* có audio; ^ có bản viết tay; # có phổ nhạc)

04 - Thực Hành Trong 6 Tháng Đầu

                                              PHƯƠNG PHÁP THỰC HÀNH THIỀN
                               PHÁP LÝ VÔ VI KHOA HỌC HUYỀN BÍ PHẬT PHÁP
                                                             
* Thực Hành Trong 6 Tháng Đầu:

Khi mới tập thiền, hành giả cần biết về Cách ngồi và Các tư thế của răng và lưỡi.
Trong giờ công phu của sáu tháng đầu tu tập, hành giả chỉ nên thực hành các pháp: NguyệnSoi Hồn, và Pháp Luân Chiếu Minh, theo thứ tự đó. Có thể làm thêm Xả Thiềnsau pháp Soi Hồn và trước khi làm Chiếu Minh. Soi Hồn và Chiếu Minh là hai pháp chính trong giai đoạn này.
(Bấm vào một trong các đề tài trên để đọc thêm.)

Khi mới tập thiền, hành giả cần biết: Cách ngồi và Các tư thế của răng và lưỡi. Các tư thế hay động tác này là một phần không thể thiếu của những pháp chính trong Vô Vi.
(Bấm vào một trong các đề tài trên để đọc thêm.)


Cách ngồi
Ngồi trên một cái gối đặt trên thảm hoặc mền. Ðầu và lưng luôn luôn giữ thẳng, rút cằm vô một chút xíu để đầu và xương sống thẳng một đường, hai cánh tay kèm theo hông. Hai lòng bàn tay úp lại để trên đùi. Ngồi xoay mặt về hướng Nam. Mắt luôn luôn nhắm, trong ý nhìn thẳng từ trung tâm hai chân mày ra phía trước. Hành giả có thể chọn một trong những cách ngồi thích hợp sau đây:
  • Ngồi kiết già: Chân phải trên đùi trái và chân trái trên đùi phải;
  • Ngồi bán già: Chân trái trên đùi hay bắp vế chân phải và chân phải dưới đùi chân trái, hoặc ngược lại;
  • Ngồi xếp bằng: Hai chân xếp tự nhiên.
(a) Ngồi kiết già(b) Ngồi bán già(c) Ngồi xếp bằng
Nếu không thể ngồi bằng những cách trên, hành giả cũng có thể:
  • Ngồi trên ghế: Ngồi thẳng không dựa lưng vào thành ghế. Hai bàn chân sát với nhau. Hai gót chân chạm với nhau. Nên mang dép hoặc chân để trên tấm thảm để tránh chân chạm mặt đất.
   
(d) Ngồi trên ghế
... đọc thêm>>

Giải thích về Cách ngồi
Tại sao ngồi thiền lại phải quay mặt về hướng Nam? Theo Thìền Sư Lương Sĩ Hằng, đó là vì hướng Nam hóa sanh hỏa. Tập trung Lửa ở trung tim chân mày, gọi là `Hỏa-Hỏa Tương-Giao'. Lửa dẫn Lửa, phát sáng lẹ hơn, còn Lửa khiếm Thủy không dẫn được.
Pháp Lý Vô Vi không quá câu nệ về cách ngồi. Hành giả có thể chọn kiểu ngồi nào thích hợp cho mình. Tuy nhiên, nếu ngồi kiết già được là tốt nhất. Đa số hành giả Vô Vi chọn cách ngồi bán già - vừa không quá khó cho thể xác, vừa đủ để làm Soi Hồn và thở Pháp Luân Thường Chuyển hiệu quả, dễ tống luồng điểu hỏa hầu ở phía sau lên bộ đầu. Nhiều hành giả cao niên cảm thấy ngồi ghế là thích hợp hơn, nhưng nên cố gắng làm Pháp Luân Thường Chuyển nhiều hơn, kết quả cũng tương đương như ngồi bán già hay xếp bằng.


Soi Hồn
Đây là pháp thứ hai, sau phần Nguyện. Hành giả có thể làm pháp này bất cứ lúc nào trong ngày, mỗi lần kéo dài ít nhất là 5 phút và nhiều nhất là 15 phút, để tập cho thần kinh khối óc được ổn định.
Tư thế của pháp Soi Hồn được mô tả trong hình dưới đây:

(a) Tư thế của pháp Soi Hồn
Cách thực hiện pháp Soi Hồn như sau:
Vẫn trong tư thế ngồi, từ từ đưa hai cánh tay lên ngang vai. Dùng đầu hai ngón tay cái đút vào nhẹ nhàng bịt kín hai lỗ tai. Dùng đầu hai ngón tay giữa chận nhẹ lên vành khớp xương khóe mắt và kéo chằn nhẹ ra cho hai mí mắt nhắm lại. Dùng đầu hai ngón tay trỏ chận nhẹ trên mí tóc chỗ màng tang. Ngón áp út và ngón út co lại vào trong lòng bàn tay. Ðầu và lưng giữ thẳng, rút cằm vô một chút, co lưỡi, răng kề răng, miệng ngậm, mắt nhắm, ý nhìn từ trung tâm chân mày thẳng tới trước, như đã giải thích trong phần Cách ngồi và Các tư thế của răng và lưỡi. Nói trong ý: 'Tập trung ba báu linh Tinh Khí Thần'. Lắng nghe điển trổi lên bộ đầu, hơi thở bình thường.

            
(b) Từng bước để đạt đến tư thế của pháp Soi Hồn
... đọc thêm>>

Giải thích về Soi Hồn
'Soi' là tìm kiếm, 'Hồn' là sự sáng suốt, thanh tịnh. Soi Hồn là một phương pháp giúp tìm kiếm lại sự thanh tịnh và sự sáng suốt của chính mình. Theo Đông Y Học, Soi Hồn là quy nguyên thần kinh khối óc, giúp khai mở trung tâm điểm của bộ đầu.
Dùng hai ngón tay cái nhẹ nhàng bịt kín hai lỗ tai là để hội tụ luồng điển về bộ đầu và tập trung nó vào giữa hai chân mày. Ngón trỏ và ngón giữa chận lên màng tang nơi chân tóc và ở giữa xương khóe mắt cũng để luồng điển chuyển chạy về trung tâm chân mày. Khi khả năng tập trung luồng điển đầy đủ thì ánh sáng sẽ phóng ra từ nơi Ấn Đường, trung tâm giữa chân mày, tiến thẳng một đường lên trung tâm của càn khôn vũ trụ, hành giả càng ngày càng cảm thấy thong thả nhẹ nhàng hơn.

Pháp Luân Chiếu Minh
Trong giai đoạn sáu tháng đầu, hành giả thực hành pháp này sau khi làm xong phần Xả Thiền, hay bất cứ lúc nào rảnh rỗi và bụng trống, ít nhất là 2 tiếng đồng hồ sau bửa ăn. Công dụng về sức khỏe của Pháp Luân Chiếu Minh là để thanh lọc và làm điều hòa bộ ruột.
Nằm ngửa trên giường hay sàn nhà có trải ra hay chiếu, đầu thẳng, lưỡi co, răng kề răng, miệng ngậm, như đã giải thích trong phần Các tư thế của răng và lưỡi. Tay chân duỗi thẳng và hoàn toàn thả lỏng. Ý tự nhủ quên hết chân, tay, thân mình. Mắt nhắm, trong ý nhìn thẳng từ giữa trung tâm hai chân mày tới phía trước, rồi tập trung chú ý tới cái rún. Khi tập pháp này, lúc nào cũng chú ý đến cái rún.
Pháp Luân Chiếu Minh bao gồm tổng cộng 78 hơi thở, được chia làm 12 hiệp. Hiệp thứ nhất là 12 hơi liên tục; hiệp thứ hai là 11 hơi liên tục, hiệp thứ ba là 10 hơi liên tục, v.v., hiệp cuối cùng là 1 hơi. Một hơi là một chu kỳ từ vị trí bình thường đến xẹp bụng tối đa, đến hít vô đến tối đa, và trở lại vị trí bình thường. Luôn luôn thả hơi thở tự nhiên để hơi ra vào nơi bụng, không phải bằng lồng ngực. Hơi thở phải từ từ vừa phải; nếu nhanh quá sẽ kém hiệu quả, nếu chậm quá sẽ dễ ngủ quên.
Cách thực hiện hết 78 hơi và tự đếm hơi thở như sau:
Sau khi nằm ngay ngắn, chấn chỉnh tầm mắt và thả lỏng toàn thân, hành giả bắt đầu bằng cách từ từ thở ra bằng mũi cho hết hơi xẹp bụng, rồi từ từ hít vô đến khi hết hít vô được thì từ từ thở ra cho bụng trở lại bình thường - đó là hết một hơi - trong ý thầm đếm '1'. Xong tiếp tục thở hơi thứ 2, cuối hơi thầm đếm '2'; thở tiếp hơi thứ 3, cuối hơi thầm đếm '3'; v.v., cho đến hết hiệp đầu tiên (12 hơi).
Cuối hiệp đầu tiên, nghĩ vài giây đồng hồ, rồi tiếp tục thở hiệp thứ hai (11 hơi thở). Cuối hiệp thứ hai cũng nghĩ vài giây trước khi làm tiếp hiệp thứ ba, v.v., cho đến hiệp cuối cùng (là 1 hơi).

    
(a) Thở ra xẹp bụng.       (b) Hít vô phình bụng

Giải thích về Pháp Luân Chiếu Minh
Pháp Luân Chiếu Minh là pháp của Đức Quan Thế Âm chỉ dạy trực tiếp cho Thiền Sư Lương Sĩ Hằng khi Ngài mới tu tập với Đức Tổ Sư, để tập hít thở bằng bụng.
Không được thở liên một hồi 78 hơi mà phải chia ra 12 hiệp như vậy, là để giải tỏa một giáp vọng động. Sau 12 hơi, nghĩ một chút, sau 11 hơi, nghĩ một chút, v.v.. để dần dần giải tỏa đi đến số 0.
Mắt phải nhìn thẳng nhưng ý nghĩ đến cái rún, vì Tứ Hải Quy Gia, là cái Vía trụ ở đó để cai quản một trường sinh hoạt của Tiểu Thiên Địa. Chú ý ở đó để dễ trụ và xuất ở tương lai.


Xả Thiền
Trong giai đoạn sáu tháng đầu, hành giả thực hành pháp này sau khi Soi Hồn. Sau giai đoạn sáu tháng, hành giả thực hành pháp này sau khi xong phần Thiền Định, để chấm dứt buổi công phu. Xả Thiền bao gồm những động tác như sau:
Bước 1: Hai tay từ từ đưa lên trên đầu. Hai lòng bàn tay đặt úp lên trên đỉnh đầu để hồi điển trở lại bản thể.
    
Bước 2: Vuốt vòng từ đầu xuống theo vành tai. Vuốt trái tai xuống. Vuốt mặt như vậy 3 lần.
            
Bước 3 - Xoa bóp hai cánh tay: chà xát hai bàn tay cho ấm, dùng một bàn tay bóp và vuốt tay kia từ bả vai xuống cánh tay, đến cổ tay thì nắm và vuốt ra khỏi các đầu ngón tay. Đổi tay và lại y như vậy cho cánh tay kia. Làm như vậy 3 lần.
        
Bước 4 - Xoa bóp hai chân: cũng chà xát hai bàn tay cho ấm, dùng hai bàn tay bóp và vuốt hai chân, từ háng xuống đùi và bàn chân. Lập lại y như vậy cho chân kia. Làm như vậy 3 lần.
Bước 5: Cuối cùng, chà mạnh 2 lòng bàn chân vào nhau, 50 lần.
                
(Bước 5)(Động tác bấm huyệt khi bị tê chân)
... đọc thêm>>

Giải thích về Xả Thiền
Trong thời gian 6 tháng đầu, hành giả chỉ cần thực hành hai bước 1 và 2 ở trên (sau khi Soi Hồn và trước khi làm Chiếu Minh).
Động tác xả thiền như trên là để quy nguyên luồng điển của hành giả trở về bộ đầu và trở vô cơ thể.
Xoa bóp tay chân là để làm cho cơ thể điều hòa, thần kinh xoa dịu. (Nhớ là nếu chân bị tê thì dùng ngón tay cái bấm huyết tê nơi móng ngón chân cái và bẻ quặp xuống. Không nên vội đứng dậy bước đi khi chân còn tê.)

05- Những Pháp Thực Hành Sau Sáu Tháng Đầu

Sau giai đoạn sáu tháng đầu tu tập với chủ yếu là Soi Hồn và Pháp Luân Chiếu Minh, hành giả có thể bước vào thực hành đầy đủ các pháp, đó là: NguyệnSoi HồnPháp Luân Thường ChuyểnThiền Định và Xả Thiền (theo thứ tự đó).
Ba pháp Soi HồnPháp Luân Thường Chuyển, và Thiền Định là ba pháp chính của pháp môn Vô Vi.
Tuy nhiên, hành giả vẫn nên tiếp tục thực hành Pháp Luân Chiếu Minh thường xuyên để hổ trợ cho bộ ruột và giúp khôi phục lại phần điển năng phải tiêu hao hằng ngày cho cuộc sống.
(Bấm vào một trong các đề tài trên để đọc thêm.)
-------------------------

Pháp Luân Thường Chuyển
Pháp Luân Thường Chuyển bao gồm ít nhất là 6 hơi thở, nhiều nhất là 12 hơi, tùy theo khả năng của hành giả. Cũng giống như trong Pháp Luân Chiếu Minh, định nghĩa của một hơi thở là: một chu kỳ từ vị trí bụng tự nhiên, đến thở ra hết hơi xẹp bụng, đến hít vô tối đa đầy bụng, đến thở ra và trở lại bình thường. Lúc nào cũng thở bằng mũi, khoan thai, liên tục, nhịp nhàng, sâu sắc, và không gián đoạn. Tránh dẫn tư tưởng theo hơi thở.
Sau khi Soi Hồn xong, hành tiếp Pháp Luân Thường Chuyển như sau:
  • Vẫn trong tư thế ngồi, từ từ hạ hai tay xuống khép sát vào hông sườn, hai lòng bàn tay úp xuống để trên đùi. Ngồi trong tư thế như đã mô tả trong phần Cách ngồi, mắt nhắm và nhìn thẳng từ giữa trung tâm hai chân mày ra phía trước, ý tập trung trên đỉnh đầu.
  • Từ từ thở ra bằng mũi, bắt đầu hơi thứ nhất. Khi đến hết hơi xẹp bụng, dùng ý thầm ra lệnh: 'đầy rún, đầy ngực, tung lên bộ đầu'. Tiếp tục từ từ hít vào. Khi không còn hít vào được nữa, liền từ từ thở ra, xẹp bụng trở lại bình thường. Đó là một hơi.
  • Tiếp tục như vậy cho hơi thứ hai, rồi hơi thứ ba, v.v. Ít nhất là 6 hơi, nhiều nhất là 12 hơi.

    •     
      (a) Thở ra xẹp bụng.       (b) Hít vô phình bụng
      ... đọc thêm>>

      Giải thích về Pháp Luân Thường Chuyển
      Thiền Sư Lương Sĩ Hằng đã giải thích như sau:
      Pháp Luân Thường Chuyển là pháp đả thông tất cả kinh mạch bên trong thì huệ tâm mới khai, mới hòa tan với càn khôn vũ trụ, hồi quang phản chiếu. Hành giả mới thấy nguyên năng bên trong và thấy rõ nguyên lai bổn tánh của chính mình.
      Khi hít hơi vào, cái ý phải ra lệnh: `đầy rún, đầy ngực, tung lên bộ đầu'. Khi đầy rún, thì bụng phình ra, đầy ngực, tung lên bộ đầu cũng bụng vẫn phình ra. Chỉ lúc bắt đầu thở ra, bụng mới từ từ xẹp xuống. Thở ra phải thở xẹp hết. Không còn giữ hơi ở trong bụng. Xẹp lép! Tại sao phải thở xẹp bụng? Khi hành giả thở xẹp là ép cái thận, trược điển được lọc, sẽ đi ra đường tiểu tiện. Ép hết rồi, mới hít từ từ vào trở lại...

      Thiền Định
      Sau khi thực hành Pháp Luân Thường Chuyển xong, hành giả thực hành tiếp pháp Thiền Ðịnh như sau.
      • Cách ngồi và để tay như lúc làm Pháp Luân Thường Chuyển.
      • Nhớ là đầu vẫn giữ thẳng, rút cằm vô một chút, co lưỡi, răng kề răng, hai tay khép sát vào hông sườn, hai lòng bàn tay úp xuống để trên đùi, mắt nhắm, và ý nhìn từ giữa trung tâm hai chân mày tới trước. Xem lại phần Cách ngồi, nếu cần. (Nếu đã tu lâu, có điển, có thể ngồi bắt ấn Tam Muội.)
      • Tập trung trí ý lên đỉnh đầu, ý thầm nguyện xuất hồn lên đảnh lễ Phật. Chỉ chú tâm lên xoáy óc một chút thôi, rồi sau đó nhìn thẳng trung tâm giữa hai chân mày lâu chừng nào tốt chừng nấy, ý chí thả lỏng, tâm phẳng lặng và ý dỗ cho ngủ. Ngồi như thế càng lâu càng tốt.
      • Khi thiền định, nếu ngứa mình, tê chân hay có ý động loạn thì chỉ niệm Nam Mô A Di Đà Phật ngay trung tim bộ đầu.

      (a) Người mới tu để tay lên đùi(b) Người tu lâu có thể bắt ấn Tam Muội
      ... đọc thêm>>

      Giải thích về Thiền Định
      Thiền Sư Lương Sĩ Hằng đã giải thích như sau:
      Thiền là cho phẳng lặng tất cả mọi sự việc và sự thanh hướng về thanh, trược lắng về trược. Thanh là chấn động lực của bộ đầu, phải thả lỏng cho nó phóng lên tới vô cùng tận và trược tự nó phải lắng trong. Trong khi Thiền Định, ngứa mình chỉ nên niệm Phật, tê chân cũng chỉ niệm Phật. Ngứa và tê nó tạo cái dâm tánh, tạo cái dâm tánh thì trở về trược. Trược rồi thì nó ác, ác trược là vậy. Còn người thiền lâu có thể bắt ấn tam muội. Ngồi Thiền Định càng lâu càng tốt, trong lúc ngồi, những vị bộ đầu rút nhẹ có thể ngủ ngồi. Bộ đầu càng rút nhẹ chừng nào thì ta càng dễ đi vào giấc ngủ mê chừng đó, trong mê có tỉnh. Ngồi đây nhưng ai nói gì cũng nghe, cái đàng trước mắt chúng ta, ngay trung tâm chân mày, cái gì chúng ta cũng thấy. Nhưng cảnh bên trên chúng ta thấy rõ rệt. Ngồi đúng thì mặt mày thấy vui tươi, ngồi không đúng thì mặt mày thấy buồn bực. Còn ngồi thiền mà quậy qua quậy lại, đó là tà khí chưa dang hay là tà khí xâm nhập, pháp luân chưa đúng chiều, đi ngược chiều. Chấn động khối thần kinh cho nên cựa quậy. Những cái đó phải ngừng ngay và thực hành chiếu minh cho nhiều, cho nó khai thông những huyệt kinh trong thể xác. Nó dẫn giải tất cả tà khí, trược khí trong thể xác, nhiên hậu nó ngồi yên tĩnh thiền định được... Lúc ngồi thanh tịnh ngay ngắn, thừa tiếp thanh điển bên trên để đi học. Lúc về thì nó nặng đầu, nó làm lắc cái đầu thì chúng ta bắt đầu xả thiền.
      Ấn Tam Muội: Người tu lâu, có điển, trong lúc ngồi tập Pháp Luân Thường Chuyển hay Thiền Định tự động rút hai bàn tay lại để ở giữa thay vì ở hai bên đùi. Cách bắt ấn Tam Muội này chỉ dành cho người tu đã lâu.