Thiền Vô Vi

*** NGUYỄN giáng trần thọ hưởng nghĩa ân. THỊ hòa tâm sự tự phân lần. ANH hành chơn pháp tìm lối thoát. ĐÀO duyên trời độ rõ pháp ân. Lương Sĩ Hằng-Vĩ Kiên.Ký Bút ****

Thứ Ba, 23 tháng 1, 2018

06 - Mười Điều Thực Hành Tâm Đạo






Mười Điều Thực Hành Tâm Đạo


         Điều 1: Nhịn Nhục và Cần Mẫn
        “Nhịn nhục”, là mình phải mở tâm, nhường cho tất cả mọi người; và cần kiệm, mẫn cán, làm việc siêng năng, không chán nản.

        Điều 2: Dứt Khoát Thất Tình Lục Dục
         Không nghĩ đến sự động loạn gia cang. Nếu chúng ta dứt khoát Thất Tình Lục Dục, nhiên hậu chúng ta mới có thể cứu được Cửu Huyền Thất Tổ. Nếu hướng một, bỏ hai, là tu hoài không tiến. Chúng ta hướng thẳng về tâm Phật, tâm Thượng Đế, lớn rộng, đại gia đình, vì chúng sanh. Lúc nào cũng vui vẻ, giải tỏa những sự phiền muộn lôi cuốn trong Ngũ Tạng và Lục Phủ của chúng ta.

         Điều 3: Tha Thứ và Thương Yêu
         Bất cứ một ai phạm lỗi đến chúng ta, chúng ta phải giàu lòng tha thứ và thương yêu. Vì sao? Vì hồn ta bất diệt, thì hồn người bất diệt. Chúng ta phải thấy rằng “Ðồng chung huynh đệ, mở thức công bằng, thương yêu và tha thứ”. Lắm lúc chúng ta làm sai, cũng mong được người tha thứ. Vậy, người làm sai, có mong chúng ta tha thứ không? Chúng ta nên tha thứ và xây dựng.

        Điều 4: Nuôi Dưỡng Tinh Thần Phục Vụ Tối Đa
         Bất cứ việc gì chúng ta làm, phải làm cho tận tình; nghiên cứu, nghiên cứu tới đích. Vì thức của phần Hồn là vô cùng, không phải ngừng tại chỗ, luôn luôn tiến hóa, thì chúng ta phải làm việc vô cùng. Chúng ta đang mang xác phàm, là đang làm việc đây, không có giờ ngừng nghỉ; thể hiện trong trí óc của chúng ta. Về tình Ðời: Tham, Sân, Si, Hỉ, Nộ, Ái, Ố, Dục, liên tục xuất hiện trong tâm thức của chúng ta. Còn về tâm Ðạo, chúng ta có ý niệm và thấy rõ Nguồn cội; chúng ta nghĩ luôn luôn hướng về con đường trở về Nguồn cội, thì lúc nào chúng ta cũng không rảnh rỗi, và chúng ta đang ở trong chu trình tiến hóa đi lên và trở về với căn bản Thanh Tịnh ở Bên Trên.
         Lúc giáng trần, thanh tịnh, bị rớt xuống thế gian, động loạn, cũng không khác gì con người rớt xuống giếng, thì phải bình tĩnh, mới lần lần leo lên mặt giếng được. Thì cái đi về nó khó hơn đi xuống. Xuống, chỉ nhảy xuống mà thôi. Về, thì phải khó hơn. Lấy cái gì chứng minh? Chúng ta, lúc còn trẻ, trẻ thơ, thì đem cái Không đến đây thôi; mà bây giờ động loạn, nói tới cái gì thì tranh chấp cái nấy, bàn cãi cái nấy! Động loạn, càng động loạn thêm! Cho nên, chúng ta dứt khoát để trở về căn bản lúc chúng ta giáng lâm là Không, vô tư, lúc nào cũng vui vẻ, và lấy cái từ điển hòa với tất cả mọi người. Ở thế gian này không có đứa bé nào mà không có người thương, mến. Chúng ta phải trở về với căn bản đó, mong ra cứu vớt được cho chính mình, và ảnh hưởng cho những người kế tiếp.

        Điều 5: Bố Thí và Vị Tha
         Lúc nào chúng ta cũng lo Tu để gom điển, sự thanh tịnh của chúng ta, và ban rải những chơn lý cho tất cả mọi người, để họ thấy rõ đường đi, kêu bằng “Bố Thí.” Và “Vị Tha,” lúc nào xác phàm này gặp gì trở ngại của thế gian, chúng ta phải tận tình giúp đỡ với khả năng sẵn có của chính ta.


        Điều 6: Đối Đãi Thực Tâm và Lễ Độ
         Lúc nào chúng ta đối đãi với bạn đạo, với nhơn loại, đều luôn luôn thực tâm. Không cần phải dối trá; không cần phải dấu diếm; không cần phải láo xược. Chúng ta giữ bình tâm, nói thẳng như vậy, là đúng theo Thiên Ý. Và lễ độ.

         Điều 7: Sống Tạm Để Cứu Đời, Không Phải Để Hưởng Thụ
         Chúng ta đã ý thức được cái xác này cấu trúc bởi siêu nhiên mà có, thì chúng ta sống đây trong Ðịnh Luật Sanh Lão Bệnh Tử và Khổ, chỉ tạm mà thôi, chớ không phải để hưởng thụ. Nếu chúng ta hưởng thụ được, thì chúng ta đâu có còn phải bỏ xác? Một ngày nào, chúng ta thấy rõ, phải bỏ xác ra đi. Vậy chớ chúng ta đi bằng cái gì? Đi bằng cái Hồn. Cho nên, ngày hôm nay chúng ta lo Tu, nuôi dưỡng cái Hồn để thăng hoa. Còn cái xác là tạm mà thôi nhưng mà xác có phương tiện để cứu Ðời; chớ không phải ở đây hưởng thụ. Hưởng thụ là tự sát đó thôi.

         Điều 8: Giữ Tâm Thanh Tịnh, Bất Cứ Trường Hợp Nào Xảy Đến
         Lúc nào chúng ta cũng giữ sự thanh tịnh, phẳng lặng. Mọi sự ồn ồn, ào ào, rồi nó sẽ trở về Không; đâu sẽ vào đấy; chúng ta cứ giữ như vậy; rốt cuộc rồi sẽ giải quyết xong. Các bạn thấy rõ: mưa, gió, bão bùng, nguy hiểm; rốt cuộc rồi đâu cũng vào đấy! Chuyện Ðại Sự mà cho chúng ta thấy rõ, là dìu dắt tâm thức của chúng ta tiến hóa mà thôi.

         Điều 9: Quên Mình, Trì Niệm Lục Tự
         Chúng ta luôn luôn nhớ niệm NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT để cho Thượng, Trung, Hạ quy nhứt, và Thức Hòa Đồng càng ngày càng mở rộng trong thanh nhẹ từ ái. Đó là nguyên lý của Nam Mô A Di Đà Phật hòa hợp với Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ của cả Càn Khôn, Vũ Trụ hiện tại.

        Điều 10: Hòa Tan Trong Khổ, Mưu Cầu Sớm Thức Tâm
         Chúng ta phải hòa tan trong sự khổ hiện tại. Thiếu thốn các phương tiện, đó là khổ. Nhưng mà chúng ta chấp nhận, thì không còn sự thiếu thốn nữa, kêu bằng 'Hòa tan trong khổ', là chấp nhận. 'Mưu cầu sớm thức tâm’: càng ngày càng hiểu được nguyên lý - sống đơn giản cũng sống tại quả địa cầu; sống phức tạp, cũng sống tại quả địa cầu này. Nhưng mà người Tu mới có cơ hội hiểu được điều này, và thức tâm, thấy rằng: Đời là tạm; Đời là bãi trường thi; chúng ta đến đây học, rồi chúng ta phải ra đi, chớ không có ai vĩnh viễn ở thế gian được.
         Cho nên, muốn tu trở nên một vị Bồ Tát, phải nuôi dưỡng Mười Ðiều này, và thực hành hằng ngày, hằng giờ, hằng phút, hằng khắc của chính chúng ta. Và chúng ta sẽ trở nên một món quà quý cho xã hội ở tương lai. Trong thời gian các bạn thực hành ở đây, rồi tương lai các bạn sẽ đi các nơi ảnh hưởng những người khác, không ngoài sự thực hành; nếu thiếu thực hành là không có kết quả.

         Thành thật cảm ơn sự lưu ý của các bạn.
          Lương Sĩ Hằng - Thiền viện Vĩ Kiên.


Thứ Hai, 22 tháng 1, 2018

07- Những Pháp Phụ

Bên cạnh những pháp chính, và tùy theo khả năng, hành giả nên thực hiện thêm những pháp phụ nhưng rất quan trọng và hữu ích trong việc sửa tánh và hổ trợ cho tâm thân, đó là: Niệm PhậtThể Dục Trợ LuânLạy Kiếng Vô ViNiệm Bát NhãMật Niệm Bát ChánhKiểm Điểm Đời Đạo, và Chưởng Hưởng Dưỡng Khí.
(Bấm vào một trong các đề tài trên để đọc thêm.)
---------------------

Niệm Phật
Pháp này còn được gọi là 'Niệm Lục Tự Di Đà'. Cách ngồi và tư thế của răng và lưỡi giống như đã trình bày trong phần Cách ngồi và Các tư thế của răng và lưỡi.
Lúc đầu tập niệm, từ từ thầm niệm từng chữ một, Nam Mô A Di Đà Phật, cốt ý là chấn động lực về phía sau của mỗi chữ, tức là chú ý đến âm hưởng chấn động lực (âm ngân vang) cuối cùng của mỗi chữ, chuyển chạy về chổ các luân xa tương ứng trên cơ thể. Nhắm mắt, miệng ngậm, co lưỡi, răng kề răng, chúng ta dùng Ý thầm niệm:
  • Nam: Khi Ý thầm niệm chữ NAM, chú ý tập trung ngay trung tâm chưng mày.
  • : Khi Ý thầm niệm chữ MÔ, chú ý tập trung ngay trung tâm bộ đầu.
  • A: Khi Ý thầm niệm chữ A, chú ý thầm niệm ngay trung tâm hai trái cật đàng sau lưng.
  • Di: Khi Ý thầm niệm chữ DI, chú ý tập trung ngay trước giữa ngực, đó là nơi phát hiện chữ VẠN.
  • Đà: Khi Ý thầm niệm chữ ĐÀ, là ánh sáng chung quanh, tất cả lỗ chân lông phát quang trong thanh tịnh và sang suốt.
  • Phật: Khi Ý thầm niệm chữ PHẬT, chú ý tập trung về ngay nơi Rún.
    • Trong khi niệm, nếu có nước miếng ra đầy, thì quay mặt sang bên trái, rồi nuốt xuống. Dần dần nước miếng sẽ ngọt và trở thành một vị thuốc, giúp ích cho cơ thể.
      ... đọc thêm>>
      Giải thích về Niệm Phật
      Niệm Nam Mô A Di Ðà Phật là để cho chấn động lực chuyển chạy toàn thân, giúp khai thông ngũ tạng ngũ kinh và để khai mở phần Ðiển Tâm trên bộ đầu.
      Luôn luôn dùng ý niệm, không niệm ra âm thanh để tránh khẩu khai thần khí tán. Nên niệm từ từ, chậm rải, chú ý vào chấn động ở đằng sau của mỗi chữ.
      Xin xem thêm phần giải thích đầy đủ hơn ở đây, và video phía bên phải do chính thiền sư Lương Sĩ Hằng dẫn giải.


Thể Dục Trợ Luân
Đứng thẳng, lưng thẳng. Hai chân dang ra bằng khoảng cách với chiều ngang của hai vai. Tay thả lỏng. Co lưỡi, răng kề răng, miệng ngậm. Đầu ngón chân co lại, bám trên mặt đất.
Cánh tay duỗi thẳng, từ từ đưa hai tay song song ra phía trước một cách nhẹ nhàng khoảng 30 độ, rồi vẫy bật cổ tay cho hai bàn tay cong lên trên, ngón tay hướng về trước, cánh tay vẫn duỗi thẳng. Rồi từ từ thả hai cánh tay xuống và kéo song song ra phía sau cho hết mức, rồi vẫy cụp bàn tay lên, lòng bàn tay hướng lên trên.
Mỗi lần làm ít nhất 15 phút. Người nào không có đồng hồ có thể đếm 300 cái cho một lần tập. (Khi đưa hai tay ra sau rồi vẫy cụp lòng bàn tay lên là một cái). Làm nhẹ và chậm chừng nào tốt chừng ấy. Hơi thở vẫn bình thường. Nhớ là đưa lên nhẹ nhẹ rồi mới kéo xuống cho thiệt hết, đằng sau phải đưa lên hết.

                
... đọc thêm>>

Giải thích về Thể Dục Trợ Luân
Thiền Sư Lương Sĩ Hằng đã giải thích như sau:
Bàn tay thì phải bật lên. Đưa tay lên ra phía sau để kích động huyệt cổ tay, nó liên hệ tới óc. Hai bàn tay phải bật lên và bật ra đàng sau để cho cái đầu ổn định. Mấy ngón chân cũng chạy lên óc. Chú ý rút hậu môn (con trê) lên mỗi khi đưa tay ra phía sau.
Nên nhớ môn thể dục này phải được thực hành một cách khoan thai, chậm rãi và nhẹ nhàng.
Tại sao cái gì của Vô Vi cũng kêu từ từ? Là để con người học cái nhẫn mà thôi. Chúng ta giáng trần nhiều kiếp, chỉ học có chữ nhẫn mà tới nay chưa xong. Tu cũng muốn mau và cái gì cũng muốn mau hết, mất cái chữ nhẫn. Có mau đi nữa mà thiếu cái sáng suốt thì làm được việc gì. Chúng ta vạn sự phải tự tu, khai triển trong thanh tịnh. Thể Dục Trợ Luân hỗ trợ cho việc điều trị áp huyết cao, dư máu và bịnh trĩ.


Pháp Luân Chiếu Minh
Trong giai đoạn sáu tháng đầu, hành giả thực hành pháp này sau khi làm xong phần Xả Thiền, hay bất cứ lúc nào rảnh rỗi và bụng trống, ít nhất là 2 tiếng đồng hồ sau bửa ăn. Công dụng về sức khỏe của Pháp Luân Chiếu Minh là để thanh lọc và làm điều hòa bộ ruột.
Nằm ngửa trên giường hay sàn nhà có trải ra hay chiếu, đầu thẳng, lưỡi co, răng kề răng, miệng ngậm, như đã giải thích trong phần Các tư thế của răng và lưỡi. Tay chân duỗi thẳng và hoàn toàn thả lỏng. Ý tự nhủ quên hết chân, tay, thân mình. Mắt nhắm, trong ý nhìn thẳng từ giữa trung tâm hai chân mày tới phía trước, rồi tập trung chú ý tới cái rún. Khi tập pháp này, lúc nào cũng chú ý đến cái rún.
Pháp Luân Chiếu Minh bao gồm tổng cộng 78 hơi thở, được chia làm 12 hiệp. Hiệp thứ nhất là 12 hơi liên tục; hiệp thứ hai là 11 hơi liên tục, hiệp thứ ba là 10 hơi liên tục, v.v., hiệp cuối cùng là 1 hơi. Một hơi là một chu kỳ từ vị trí bình thường đến xẹp bụng tối đa, đến hít vô đến tối đa, và trở lại vị trí bình thường. Luôn luôn thả hơi thở tự nhiên để hơi ra vào nơi bụng, không phải bằng lồng ngực. Hơi thở phải từ từ vừa phải; nếu nhanh quá sẽ kém hiệu quả, nếu chậm quá sẽ dễ ngủ quên.
Cách thực hiện hết 78 hơi và tự đếm hơi thở như sau:
Sau khi nằm ngay ngắn, chấn chỉnh tầm mắt và thả lỏng toàn thân, hành giả bắt đầu bằng cách từ từ thở ra bằng mũi cho hết hơi xẹp bụng, rồi từ từ hít vô đến khi hết hít vô được thì từ từ thở ra cho bụng trở lại bình thường - đó là hết một hơi - trong ý thầm đếm '1'. Xong tiếp tục thở hơi thứ 2, cuối hơi thầm đếm '2'; thở tiếp hơi thứ 3, cuối hơi thầm đếm '3'; v.v., cho đến hết hiệp đầu tiên (12 hơi).
Cuối hiệp đầu tiên, nghĩ vài giây đồng hồ, rồi tiếp tục thở hiệp thứ hai (11 hơi thở). Cuối hiệp thứ hai cũng nghĩ vài giây trước khi làm tiếp hiệp thứ ba, v.v., cho đến hiệp cuối cùng (là 1 hơi).

    
(a) Thở ra xẹp bụng.       (b) Hít vô phình bụng

Giải thích về Pháp Luân Chiếu Minh
Pháp Luân Chiếu Minh là pháp của Đức Quan Thế Âm chỉ dạy trực tiếp cho Thiền Sư Lương Sĩ Hằng khi Ngài mới tu tập với Đức Tổ Sư, để tập hít thở bằng bụng.
Không được thở liên một hồi 78 hơi mà phải chia ra 12 hiệp như vậy, là để giải tỏa một giáp vọng động. Sau 12 hơi, nghĩ một chút, sau 11 hơi, nghĩ một chút, v.v.. để dần dần giải tỏa đi đến số 0.
Mắt phải nhìn thẳng nhưng ý nghĩ đến cái rún, vì Tứ Hải Quy Gia, là cái Vía trụ ở đó để cai quản một trường sinh hoạt của Tiểu Thiên Địa. Chú ý ở đó để dễ trụ và xuất ở tương lai.


Lạy Kiếng Vô Vi

Đứng thẳng trước kính Vô Vi. Nếu nhà không có kính Vô Vi thì quay về hướng Nam bắt đầu lạy. Trong lúc lạy, co lưỡi, răng kề răng, miệng ngậm, niệm Phật trên đỉnh đầu. Tiếp tục niệm Phật và lạy. Mỗi lần tập 50 lạy như vậy. Hơi thở bình thường.
Chu kỳ một lạy là: Tay chắp -- Đưa cao lên khỏi đầu -- Khom người lạy -- Đầu gối, ngón tay, đầu chạm đất.

     
... đọc thêm>>

Giải thích về Lạy Kiếng Vô Vi
Lạy kiếng, trước hết là giúp cho sức khỏe của cơ tạng.
Về điển giới, Thiền Sư Lương Sĩ Hằng đã giải thích như sau:
... Nếu mà các bạn trược, thì các bạn không thấy cái gì, cũng xá mà thấy cái phàm ngã của bạn mà thôi. Khi cái tâm các bạn nhẹ rồi các bạn xá thấy sự thanh cao, thấy Tiên Phật, thấy cảnh trời, trong một nháy mắt là thấy hết trọi rồi. Cho nên cái kiếng Vô Vi rất huyền diệu cho người tu học trong thực hành mà kiểm chứng mỗi kỳ, mỗi buổi sáng. Nhiều khi các bạn làm sái quấy trong đêm, sáng đứng trước kiếng các bạn sợ, tự động các bạn sợ nhìn mặt thằng này nó sa sút quá! tự mình sợ, sa sút rồi sẽ đi đâu, mình sợ! Cho nên cái sợ đó nó tạo cái ăn năn, rồi về, mình mới ăn năn, mình mới lo tu nữa. Cái kiếng đó nó nhắc hằng ngày nếu các bạn biết sử dụng nó, chớ đừng cho cái kiếng đó là một vị Thánh gác cửa hay là một vị Thần giữ cửa...

Cách Thượng Kiếng Vô Vi
Kính Vô Vi là biểu trưng cho thanh quang của càn khôn vũ trụ và cũng là biểu trưng cho lòng trung nghĩa.
Cách tốt là thượng kính Vô Vi trong phòng khách, hướng về cửa ra vào hay cửa sổ, nơi sáng sủa, khang trang, có nhiều ánh sáng chiếu vào. Kính nên dùng hình bán nguyệt (nửa hình tròn) vì hình bán nguyệt nhận ánh sáng mặt trăng dịu hơn. Ban ngày thì nhận ánh sáng mặt trời.
Chọn ngày mùng một hay ngày thứ mười lăm (ngày rằm) trong tháng âm lịch để thượng kính.
Kính Vô Vi khi gắn lên tường phải phủ vải đỏ cho đến khi làm lễ thượng kính.
Khi dâng hoa và ngũ quả (năm loại trái cây tượng trưng cho ngũ tạng) thì dùng hoa màu trắng (tượng trưng cho huệ linh) đặt phía bên trái (từ ngoài nhìn vào kiếng). Đức Thầy có dạy phía bên trái mạnh hơn, ngũ quả thì đặt ngay chính giữa. Nếu làm ăn buôn bán thì nhớ dâng hoa mỗi ngày, còn không vào mồng một hay rằm thì dâng hoa và ngũ quả.
Đúng 12 giờ trưa, gia chủ đứng trước kính, chắp tay trước ngực và nguyện 3 lần: Xin Đức Quan Thánh Đế Quân hộ độ cho gia cang chúng con được bình an, tu hành tinh tấn.
Rồi ngồi trước kính trong tư thế thiền và tập trung ý trí lên trung tâm bộ đầu thầm niệm Nam Mô A Di Đà Phật liên tục từ năm tới mười phút. Xong rồi xá 3 lần.
Mỗi nhà chỉ nên thượng một kính Vô Vi thôi. Nếu bạn nào đã thượng kính rồi mà không phải hình bán nguyệt thì cứ giữ kính cũ.
Trường hợp nếu kính Vô Vi bị vàng ố, đó là Bên Trên đã rước bớt một phần nạn cho chúng ta và chúng ta nên thay một kính Vô Vi mới. Khi thay, thầm nguyện trên đỉnh đầu: (1) Xin mời quý vị chuyển qua kính mới. (2) Xin Đức Quan Thánh Đế Quân hộ độ cho gia cang chúng con được bình an, tu hành tinh tấn (nguyện 3 lần).
Kính cũ có thể dùng để soi mặt hoặc bỏ đi cũng không sao. Có thể mời thêm bạn đạo đến chung thiền để tăng thêm lòng thành kính và niềm tin.
Mỗi buổi sáng trước khi rời khỏi nhà hay buổi chiều khi trở về, hành giả đứng trước kính Vô Vi, chắp tay trước ngực, thầm niệm trên đỉnh đầu Nam Mô A Di Đà Phật 3 lần, rồi xá 3 cái.



Niệm Bát Nhã
Sau bữa ăn chúng ta nên thành tâm cầu nguyện cho vạn linh bằng cách tập trung ý chí trên đỉnh đầu, trong tư thế ngồi như đã giải thích trong phần Cách ngồi, bắt ấn Tam Muội và ý thầm niệm các câu sau đây:
Nam Mô Bát Nhã Ba La Mật Đa
Sắc Bất Dị Không Không Bất Dị Sắc
Thời Chiếu Kiến Ngũ Uẩn Giai Không
Thọ Tưởng Hành Thức Diệt Phục Như Thị
Độ Nhất Thiết Khổ Ách
Nam Mô A Di Đà Phật.
Niệm như vậy 3 lần, xong chắp tay xá, nghỉ.
... đọc thêm>>

Giải thích về Niệm Bát Nhã
Thiền Sư Lương Sĩ Hằng đã giải thích như sau:
Vì khi chúng ta ăn, nhờ vạn linh đóng góp cơ tạng mới được phát triển, thì luồng điển ấy chúng ta hướng tâm khi cầu nguyện, ý niệm chứ không nói ra miệng, luồng điển mới đi lên. Có điển trên bộ đầu, cao hơn, nhẹ hơn, để có cơ hội giải thoát vạn linh đồng tiến với chúng ta trong hòa đồng thanh nhẹ.
Nguyện sau buổi ăn là đồng lòng dẫn tiến, còn trước bữa ăn cầu nguyện là ỷ lại thôi chứ không làm gì được hết. Chúng ta gánh vác, giải tiến mới là chơn chánh. Trong ý niệm Nam Mô Bát Nhã Ba La Mật Đa là chuyển chạy và rút liền lên khối óc, tiến hóa đi lên. Nam Mô Bát Nhã Ba La Mật Đa, Sắc Bắt Dị Không, Không Bất Dị Sắc — Đồng đẳng như nhau, sắc cũng là không không cũng là sắc. Thời Chiếu Kiến Ngũ Uẩn Giai Không — Bộ đầu chúng ta không còn nữa mới dẫn tiến lên khối thanh nhẹ, vạn linh đồng tiến ngũ uẩn giai không. Thọ Tưởng Hình Thức Diệt Phục Như Thị — Tất cả đều đồng tu như chính phần hồn đang tiến hóa. Độ Nhất Thiết Khổ Ách, là khi chúng ta co lưỡi răng kề răng, Đông Nam Tây Nam Đông Bắc Tây Bắc, luồng điển đều chuyển chạy, chúng ta cảm thấy nước miếng trong miệng ngọt, niệm như vậy thì mới dẫn tiến được vạn linh trong cơ thể đồng tiến, tất cả mới vượt khỏi sự trần trược khổ ách, nội tâm mới thanh nhẹ

Bên cạnh những pháp chính, và tùy theo khả năng, hành giả nên thực hiện thêm những pháp phụ nhưng rất quan trọng và hữu ích trong việc sửa tánh và hổ trợ cho tâm thân, đó là: Niệm PhậtThể Dục Trợ LuânLạy Kiếng Vô ViNiệm Bát NhãMật Niệm Bát ChánhKiểm Điểm Đời Đạo, và Chưởng Hưởng Dưỡng Khí.
(Bấm vào một trong các đề tài trên để đọc thêm.)

Mật Niệm Bát Chánh
Pháp này dành cho những người đã tu lâu, có điển rút bộ đầu. Giờ thực hành: từ 6 giờ chiều đến 10 giờ tối.
Ngồi trong tư thế Thiền Ðịnh, (xem lại trong phần Cách ngồi nếu cần), hướng về phương Nam, đầu thẳng, rút cằm vô, co lưỡi, răng kề răng, mắt nhắm lại và ý nhìn từ giữa trung tâm hai chân mày tới trước, có thể bắt ấn Tam Muội.

 
Dùng ý niệm niệm Phật để điển chuyển chạy trên tám điểm như sau:

  • *Dùng ý niệm Phật, bắt đầu bằng chữ `Nam' ở đầu môi trên, rồi `Mô', `A', `Di', `Đà', đến cuối cùng chữ `Phật' nằm ở chót mũi. Đây là điểm thứ nhất.

  • *Tiếp tục dùng ý niệm sáu chữ đó từ chót mũi đến điểm thứ nhì là trung tim chân mày(còn gọi là huyệt Ấn Đường).

  • *Niệm tiếp, từ trung tim chân mày đến điểm thứ ba là giữa trán.

  • *Niệm tiếp, từ giữa trán đến điểm thứ tư là mỏ ác (huyệt Nê Hườn hay Thiên Môn), khỏi mí tóc,  khoảng 3 lóng tay từ chân tóc ở trán đi lên.

  • *Niệm tiếp, từ mỏ ác đến điểm thứ năm là đỉnh đầu (Hà Đào Thành).

  • *Niệm tiếp, từ đỉnh đầu đến điểm thứ sáu là huyệt Ngọc Chẩm (sau ót đối diện với Ấn Đường).

  • *Niệm tiếp, từ huyệt Ngọc Chẩm đến điểm thứ bảy là Huỳnh Đình. (Cách thức tìm huyệt: để lòng bàn tay qua vai, ngón tay giữa chạm xương sống, điểm đó là Huỳnh Đình. Điểm đó cũng có thể coi là Hiệp Tích, vì Hiệp Tích cũng tới điểm đó).

  • *Niệm tiếp, từ Huỳnh Đình đến điểm thứ tám là trung ương trái cật (huyệt Mạng Môn, ngang với rún).
Cứ ý niệm để điển chuyển chạy trên tám điểm như vậy 3 lần.
... đọc thêm>>

Giải thích về Mật Niệm Bát Chánh
Thiền Sư Lương Sĩ Hằng đã giải thích như sau:
Khi chúng ta tu có luồng điển rồi, ý niệm cảm thấy như có ngón tay chạy ngay đến chót mũi, như là ngón tay chỉ ngay cái huyệt, niệm tới chỗ nào nó chỉ ngay chỗ đó, chạy tới chỗ nào nó phải chỉ tới chỗ đó, rõ rệt vậy. Những người có điển niệm thấy nó chạy rõ ràng. Niệm càng lâu tám điểm càng rõ rệt và nó sáng choang ra, con người mới kiểm soát được ngày nay mình không có làm gì bậy bạ. Luồng điển thông thay vì luồng điển nghẹt là không được. Niệm tới hai ba chỗ nó ngưng, đó là nó nghẹt. Lo chuyện đời nhiều quá thì chúng ta nên bỏ, ăn năn sám hối và bỏ; niệm lại thì tự nhiên sẽ thông và sáng. Khi sáng rồi thì con người thanh nhẹ không nói bậy bạ được. Nói đâu cũng là triết lý để dẫn dắt đời tiến hóa.
Người tu chúng ta xuất hồn ra thế gian chỉ đi ở chỗ Ấn Đường này thôi, rồi đi học đạo tại Trung Thiên Thế Giới (giữa trán) rồi tới Bồng Lai (trên mí tóc), rồi tới Phật giới (đỉnh đầu), rồi chuyển ra đằng sau này là chỗ Huỳnh Đình trong cái Tiểu Thiên Địa, rồi tới thận thủy mới cảm minh cái khối kêu bằng thế gian, đại tự nhiên ở thế gian.
Sự kiểm soát này người có điển mới niệm được, còn người không có điển ngồi niệm không được, bấn loạn thêm thôi. Cho nên để dành riêng cho người có điển và cảm giác được phần điển chạy trong cơ thể mới cho nó chuyển chạy như vậy và lập lại trật tự.
Mỗi đêm chúng ta kiểm soát như vậy thì luồng điển không có bị lung lạc và không có hướng ngoại, để kiểm soát chắc chắn thành quả khai triển tâm linh của chính mình. Những người tu lâu niệm tới chỗ nào thì dường như có bóng đèn đỏ nó phải bật cháy sáng liền. Còn những người tu chưa đạt được kết quả cao thì chỉ cảm nhận nó chạy tê tê chút vậy thôi. Còn người thành đạo là phải thấy tám điểm đó nó phải có tám bóng đèn đỏ sáng bừng lên.
Không nên nghe những sự động loạn và không có kiểm chứng rõ rệt. Tôi muốn đem ra tất cả sự thật mà chính tôi lúc tu cũng thử thách ông Tư và tìm hiểu những cái gì sẵn có của Ngài. Và đến ngày hôm nay, tôi đã kiểm chứng từ giai đoạn một tôi đã đi tới, tôi cống hiến cho các bạn. Các bạn tiếp tục tu, kiểm chứng, và kiểm soát lấy các bạn. Tư tưởng nhiều khi bị lung lạc rồi nói bậy. Cho nên chúng ta phải kiểm chứng cho nó rõ rệt, từ giai đoạn một, chúng ta đã đến đó chưa. Không nên nói quá trớn rồi tạo lấy sự sai lầm.
Còn cái phần huệ giác bên trong có mở được chỉ ghi chép vô sách mà thôi, không nên phổ biến vì đó là mọi trình độ khác nhau. Mỗi người mở mỗi giới khác nhau, chỉ ghi vô cuốn sách đó thôi, lưu lại cho hậu thế. Và sau kết luận, chúng ta nói rằng tôi khám phá ra tôi như thế này, thì người khác họ sẽ tiếp tục giữ đúng 3 phương pháp này để học, khám phá nguyên căn và thấy nhiệm vụ của họ khác hơn. Mọi người chúng ta đều có nhiệm vụ tại thế chớ không phải không. Đừng tưởng lầm là tôi xuống đây tôi chơi, không có đâu. Xuống đây là có nhiệm vụ làm việc để lưu lại cuốn sách sinh lão bệnh tử khổ cho thế sanh, và thức tâm tùy theo hoàn cảnh, tùy theo trình độ khác nhau.



Kiểm Điểm Đời Đạo
Pháp này dành cho những người đã tu lâu, có điển rút bộ đầu. Giờ thực hành: từ 5 đến 6 giờ sáng.
Trong tư thế ngồi ngay thẳng, đầu thẳng, rút cằm vô, lưng thẳng, co lưỡi, răng kề răng, miệng ngậm, mắt nhắm lại và nhìn từ giữa trung tâm hai chân mày tới trước, ý tập trung trên đỉnh đầu, hai lòng bàn tay úp để trên đùi.
Ý tưởng kiểm điểm đời đạo: đến ngày nay có làm gì bậy không? có mích lòng ai không? rồi ra sân hít dưỡng khí một hơi từ trên óc xuống bụng luôn. Hít một lượt như vậy 3 lần, thì con người sẽ được khỏe lắm. Mỗi buổi sáng làm đều như vậy.
... đọc thêm>>

Giải thích về Kiểm Điểm Đời Đạo
Ta phải tự kiểm điểm để tự tiến tới, không cần so sánh với người khác. Dòm thấy bản mặt của mình, dòm thấy tâm thức của mình. Trầm lặng suy tư, thích hợp trong cái hòa điệu của Thượng Đế đang dẫn giải trong hơi thở của mình.

Chưởng Hưởng Dưỡng Khí
Dành cho những người đã tu lâu, có điển rút bộ đầu. Giờ thực hành: ngay sau khi hành Kiểm Điểm Đời Đạo, mỗi buổi sáng lúc 5, 6 giờ sáng.
Ra giữa trời, hướng nào cũng được, đầu thẳng, rút cằm vô, lưng thẳng, hai tay buông lỏng xuống, co lưỡi, răng kề răng, miệng ngậm, mắt nhắm lại, ý nhìn thẳng từ giữa trung tâm hai chân mày tới trước và tập trung nơi trung tâm bộ đầu, hít vào một hơi. Chúng ta dùng ý hít thanh điển từ Càn Khôn Vũ Trụ xuống, cộng với hơi thở trong lỗ mũi, hai cái là một.
Hít vào 3 lần như vậy là được rồi. Bộ óc sẽ được thanh nhẹ, mới thừa tiếp được cái phần điển ở bên trên.
Giải thích về Chưởng Hưởng Dưỡng Khí
Sau nầy, lâu ngày dài tháng rồi, chúng ta mới làm được cái Soi Hồn bằng ÝPháp Luân bằng Ý, làm cho cơ thể chuyển chạy. Đó là luồng điẻn bên trong cơ tạng chúng ta chuyển chạy.
Cho nên tôi đã nhắc các bạn mỗi buổi sáng đứng ra ngoài trời, chưởng dưỡng một chút thanh khí của càn khôn vũ trụ. Dùng trung tim bộ đầu và lỗ mũi hít một lượt, 3 lần như vậy để tập quen và tương lai chúng ta dùng ý chuyển điển, dùng ý để hít, để khai thông ngũ tạng của chúng ta. Cho nên nó có giờ giấc. Khi mà trung tim bộ đầu cảm ứng được điều này thì luôn luôn các bạn làm việc tứ thời: 6 giờ sáng, 12 giờ trưa, 6 giờ chiều, giờ tý ban đêm, là ngay chỗ đó nó có mát lạnh và chuyển chạy. Cho đến lúc chúng ta làm Pháp luân Thường Chuyển bằng ý, vừa chuyển ý tôi muốn: 'đầy rún, đầy ngực, tung lên bộ đầu' thì tự nhiên nó chuyển và nó qui hội lên trung tim bộ đầu. Qui hội lên trung tim bộ đầu để chi? Ðể học đạo, hòa với thanh giới, rồi nó mới đi tới sáng suốt, tạo cái Hào Quang tự vệ, tự tiến.
Xin xem thêm video phía bên phải do chính thiền sư Lương Sĩ Hằng dẫn giải.




NHỮNG VIDEO VẤN ĐẠO VÔ VI


Vấn Đạo phần 1



Vấn Đạo phần 2


Ghi Chú: Những tài liệu về Vô Vi được trích trong THƯ VIỆN VÔ VI (http://vovilibrary.net/)
và Youtube Pháp Lý Vô Vi